Dự báo tình hình tội phạm về ma túy và các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy

Thuật ngữ dự báo được sử dụng để biểu thị việc nghiên cứu xã hội học cụ thể mà mục đích của nó là thu nhận được những thông tin đầy đủ, cụ thể về trạng thái trong tương lai của một khách thể xã hội nào đó. Dự báo tình hình tội phạm về thực chất là phán đoán khả năng của tình hình tội phạm trong tương lai. Nó chính là cơ sở của việc xây dựng các chương trình và kế hoạch phòng ngừa tội phạm trong phạm vi cả nước hay từng khu vực địa lý nhất định; là cơ sở hình thành nhiệm vụ, phương hướng phòng ngừa tội phạm cụ thể.
– Trên phương diện quốc tế
Qua nghiên cứu một số công trình nghiên cứu của nước ngoài và các tổ chức quốc tế về tình hình tội phạm ma túy toàn cầu, cũng như những cảnh báo và các giải pháp, kế hoạch hành động mang tính chiến lược của Liên Hợp Quốc để giải quyết vấn đề này, chúng tôi nhận thấy dường như các kết quả có sự tương đồng ở một số khía cạnh nhất định về những vấn đề cần giải quyết, trong đó, có một số nội dung nổi bật như:
– Tính liên kết khu vực và quốc tế trong phòng ngừa các tội phạm về ma túy: Tính chất này giữ vai trò quy định đối với Kế hoạch hành động của Liên minh châu Phi (AU) trong việc kiểm soát ma túy và phòng, chống tội phạm về ma túy giai đoạn 2007-2012 và giai đoạn 2013-2017;
– Mối quan hệ giữa tội phạm về ma túy và số người nghiện ma túy: Ma túy và tội phạm – một mối quan hệ phức tạp (tội phạm “dẫn đến” ma túy; ma túy “dẫn đến” tội phạm; ma túy và tội phạm tương quan thông qua sự xuất hiện đồng thời);
– Tội phạm về ma túy có một nguồn “nhân lực” dồi dào từ số người nghiện ma túy, trong khi số người nghiện ma túy có sự gia tăng trong thời gian qua với nhiều loại ma túy mới (ma túy tổng hợp) như Methamphetamine;
– Lạm dụng chất ma túy, phạm tội và tái phạm;
– Sự phát triển kinh tế-xã hội và sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội có khoảng cách lớn và sự tác động đến tội phạm về ma túy;…
– Vấn đề hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, dẫn độ tội phạm và tương trợ tư pháp hình sự.
Mặc dù mỗi nước, mỗi khu vực, mỗi châu lục có những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau nhưng qua tổng quan một số tài liệu đã được nghiên cứu, chúng tôi có cơ sở khái quát những phương hướng đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma túy một cách đa chiều, có sự so sánh, đối chiếu phù hợp.
– Tại Việt Nam
Để đề ra những dự báo có căn cứ xác thực, trước hết, cần nghiên cứu, xem xét những yếu tố ảnh hưởng đến việc phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy tại Việt Nam trong thời gian tới, Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo 138 của Chính phủ (Bộ Công an) đã nhận định, dự báo:
Tác động của tình hình tệ nạn, tội phạm ma túy trên thế giới và khu vực:  Theo đánh giá của Cơ quan phòng, chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC), tình hình tội phạm ma túy sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường. Cùng với sự xuất hiện của nhiều loại ma túy mới, tình hình sản xuất, mua bán, vận chuyển và sử dụng các loại ma túy tổng hợp, các chất hướng thần gia tăng ở hầu hết các quốc gia, xu hướng này có thể rất khó kiểm soát. Châu Á đã là thị trường tiêu thụ các loại ma túy tổng hợp, các chất hướng thần. Tại Đông Nam Á, diện tích và sản lượng thuốc phiện liên tục tăng; vùng Tam giác vàng trở thành trung tâm sản xuất ma túy tổng hợp của thế giới. Các đường dây vận chuyển cocaine từ các nước Mỹ La-tinh được phát hiện, bắt giữ gần đây cho thấy loại tội phạm này đang nhằm vào thị trường khu vực Đông Nam Á, trong đó, có Việt Nam. Sự hình thành cộng đồng ASEAN với những chính sách thông thoáng sẽ là điều kiện để tội phạm ma túy triệt để lợi dụng hoạt động tội phạm. Đáng chú ý, tại một số nước, xuất hiện khuynh hướng muốn hợp pháp hóa việc sử dụng và lưu hành một số loại ma túy cũng sẽ tác động trái chiều đến tư tưởng và việc đề ra quyết sách về phòng, chống ma túy tại nước ta.
Tác động của tệ nạn ma túy và tình hình tội phạm về ma túy trong nước: Do tác động của tình hình tội phạm về ma túy trên thế giới và trong khu vực, tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy ở nước ta giai đoạn 2016-2020 được dự báo vẫn diễn biến phức tạp trên các mặt:
– Phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm về ma túy sẽ ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động và thường xuyên thay đổi. Chúng sử dụng phương tiện giao thông, liên lạc hiện đại, vũ khí quân dụng; sẵn sàng, thậm chí chủ động chống trả quyết liệt khi bị phát hiện, truy đuổi, bắt giữ; triệt để lợi dụng những kẽ hở mà cơ sở hạ tầng chưa có điều kiện kiểm soát của chính sách thông thoáng về giao thông, thương mại trong nước và khu vực để thực hiện hành vi phạm tội.
– Do ảnh hưởng bởi vị trí địa lý, tác động của nhu cầu trong nước và siêu lợi nhuận từ mua bán, vận chuyển ma túy nên các đường dây mua bán, vận chuyển ma túy xuyên quốc gia và quốc tế tiếp tục hoạt động nhằm biến nước ta thành thị trường tiêu thụ và trung chuyển (chỉ khoảng 20% lượng ma túy thẩm lậu vào được sử dụng trong nước). Tình hình phức tạp trên tất cả các tuyến (đường bộ, đường hàng không, đường biển) và trên nhiều địa bàn.
– Số lượng người nghiện ma túy trong nước lớn (hơn 0,2% dân số); thành phần người nghiện đa dạng; tỷ lệ người nghiện, sử dụng ma túy phạm các tội hình sự khác cao (trên 34% tổng số người phạm tội), đặc biệt là số người nghiện, sử dụng ma túy tổng hợp có xu hướng gia tăng, thường phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng, gây hoang mang, bất ổn trong xã hội; phạm vi tác động của tệ nạn ma túy rộng (hơn 72,3% số xã, phường, thị trấn có tệ nạn ma túy) và chưa có xu hướng giảm sẽ tác động đến tình hình quốc phòng – an ninh, trật tự an toàn xã hội và các chính sách kinh tế – xã hội theo chiều hướng tiêu cực.
– Tình trạng trồng cây thuốc phiện có chứa chất ma túy, sản xuất trái phép chất ma túy tuy đã được kiểm soát và ở mức thấp nhưng luôn tiềm ẩn những quy cơ và diễn biến phức tạp do các yếu tố kinh tế, xã hội, như: Yếu kém trong quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực; di dân tự do; những khó khăn về kinh tế; truyền thống và kinh nghiệm canh tác của đồng bào; tội phạm lợi dụng khoa học – kỹ thuật và sự yếu kém hiểu biết của nhân dân;…
Quyết định số 1001/QĐ-TTg ngày 27/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt “Chiến lược Quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã đề ra 07 nhóm giải pháp: Nhóm giải pháp chính trị, xã hội; nhóm các giải pháp về pháp luật, chế độ chính sách; nhóm giải pháp về nâng cao năng lực quản lý; nhóm giải pháp về thông tin, tuyên truyền phòng, chống ma túy; nhóm các giải pháp giảm cung và giảm cầu về ma túy; nhóm giải pháp huy động nguồn lực; nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế phòng, chống và kiểm soát ma túy. Nội dung Chương trình quốc gia tại Việt Nam (2012-2017) mà Việt Nam đã ký kết với Cơ quan Phòng, chống Ma túy và Tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC) đưa ra nhận định: “Trong những năm vừa qua, khi việc sản xuất ma túy trái phép đã được cơ bản xóa bỏ, thì tình trạng sử dụng ma túy, hầu hết là heroin và hoạt động tiêu thụ các chất ma túy dạng amphetamine ngày càng tăng, đặt ra nhiều thách thức cho phát triển kinh tế và xã hội. Hoạt động cai nghiện cần được cải thiện, cung cấp dịch vụ dựa trên cơ sở khoa học và nhân phẩm của người bệnh…” Trên cơ sở đó, tiểu chương trình 5 về “Giảm cầu ma túy và HIV/AIDS” liên quan đến sức khỏe và phát triển con người trong bối cảnh tội phạm sử dụng ma túy bất hợp pháp bao gồm các vấn đề sau: Phòng ngừa sử dụng ma túy, điều trị lệ thuộc ma túy, phòng ngừa, điều trị chăm sóc và hỗ trợ đối với hậu quả về sức khỏe và xã hội của sử dụng ma túy… Như vậy, UNODC đã lựa chọn giải pháp thứ 5 do Chính phủ Việt Nam đưa ra để hỗ trợ triển khai thực hiện chiến lược phòng ngừa tội phạm về ma túy.
Quyết định số 424/QĐ-TTg ngày 07/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phòng, chống ma túy đến năm 2020 đã đề ra 04 mục tiêu và 05 nhiệm vụ trọng tâm. Cụ thể:
– Về mục tiêu, Chương trình nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện và thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống ma túy; phát huy những thành tích, kết quả đạt được, đồng thời khắc phục những hạn chế tồn tại trong thời gian qua; kiềm chế sự gia tăng, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tác hại của tệ nạn ma túy đối với đời sống xã hội, gồm:
+ Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các kiến thức phòng, chống ma túy với các hình thức, thời lượng và nội dung phù hợp tại 100% số xã, phường, thị trấn, trường học, khu công nghiệp, khu chế xuất.
+ Số vụ phạm tội sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy từ mức độ nghiêm trọng trở lên được phát hiện, xử lý tăng hơn 5% so với năm trước; không phát sinh tụ điểm phức tạp về ma túy, triệt xóa từ 5 – 10% số điểm, tụ điểm mỗi năm trên phạm vi toàn quốc; không quá 1 năm từ khi xảy ra, 100% hành vi phạm tội sản xuất trái phép chất ma túy ở trong nước được phát hiện, xử lý triệt để; giảm diện tích cây có chứa chất ma túy trồng trái phép so với năm trước và triệt phá 100% diện tích phát hiện được.
+ Phấn đấu hạn chế phát sinh người nghiện mới, mỗi năm, hơn 1% số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý đủ tiêu chuẩn đưa ra khỏi diện và giảm hơn 1% số xã, phường, thị trấn có ma túy so với năm trước; đến năm 2020, có hơn 20% số xã, phường, thị trấn trọng điểm về ma túy giảm mức độ phức tạp so với năm 2015; mỗi huyện, quận, thị xã, thành phố (trực thuộc tỉnh) xây dựng được 1 mô hình điểm về phòng, chống ma túy tại xã, phường, thị trấn/năm.
+ Hằng năm, 80% số người nghiện và sử dụng ma túy có hồ sơ quản lý được tiếp cận các dịch vụ tư vấn, điều trị, cai nghiện; 90% cơ sở cai nghiện đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện về cai nghiện ma túy.
– Nhiệm vụ trọng tâm:
+ Triển khai đồng bộ các biện pháp phòng ngừa tệ nạn ma túy: Tổ chức tuyên truyền, giáo dục kiến thức về phòng, chống ma túy bằng nhiều hình thức trên tất cả các phương tiện truyền thông với nội dung phù hợp từng vùng, miền, từng loại đối tượng, chú ý đến tác hại và xu hướng sử dụng ma túy tổng hợp, chất hướng thần và một số chất ma túy mới; hỗ trợ hoạt động và nhân rộng các mô hình phòng, chống ma túy có hiệu quả ở cơ sở; kết hợp, lồng ghép với tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật và phát triển kinh tế – xã hội khác.
+ Chủ động nắm tình hình, tổ chức đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm ma túy, chú trọng đấu tranh ngăn chặn ma túy thẩm lậu vào nước ta và triệt xóa các tụ điểm, điểm phức tạp về ma túy trong nước; nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
+ Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động hợp pháp về ma túy, không để thất thoát tiền chất, các dược phẩm có chứa chất ma túy và chất hướng thần sử dụng sai mục đích; chủ động phòng ngừa, phát hiện, xử lý triệt để những hành vi liên quan đến trồng cây có chứa chất ma túy và sản xuất trái phép ma túy trong nước, nhất là ma túy tổng hợp.
+ Tổ chức quản lý chặt chẽ người nghiện; thực hiện có hiệu quả việc rà soát, thống kê, phân loại người nghiện ma túy; tiếp tục đổi mới, mở rộng các hình thức, biện pháp dự phòng nghiện ma túy, cai nghiện và giảm tác hại cho người nghiện ma túy; hỗ trợ, thực hiện có hiệu quả công tác quản lý sau cai tại cộng đồng, phòng ngừa tái nghiện.
+ Tăng cường khả năng chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện và mở rộng các hình thức, biện pháp xã hội phòng, chống ma túy; huy động đa dạng các nguồn lực hợp pháp tham gia phòng, chống ma túy.
Các giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội phạm về ma túy
– Đề xuất các giải pháp cơ bản dưới góc độ tội phạm học
Sự ra đời, tồn tại của tội phạm gắn liền với Nhà nước và pháp luật nên trong xã hội còn giai cấp, còn Nhà nước và pháp luật, những nỗ lực của loài người chỉ có thể đạt đến mục tiêu kiểm soát tội phạm chứ không thể xóa bỏ nó. Do đó, về mặt lý luận cũng như thực tiễn hành động, không bao giờ có khái niệm loại trừ hay thủ tiêu tội phạm, mà chỉ có các khái niệm “phòng ngừa”, “phòng, chống”, “kiểm soát” tội phạm được đặt ra. Trong đó, kiểm soát tội phạm (Crime control) có thể coi là khái niệm bao hàm cả các khái niệm còn lại.
Phòng ngừa tội phạm là một vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng. Tội phạm học có mục đích đưa ra những kiến nghị về các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phòng ngừa tội phạm là mục đích cuối cùng của tội phạm học, tức là phải kiến giải được hệ thống các biện pháp ngăn ngừa tội phạm (ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra; ngăn ngừa không cho tội phạm thực hiện đến cùng và ngăn ngừa không cho tái phạm) và loại trừ tội phạm khỏi đời sống xã hội. Đó chính là mục đích biện chứng Mác-xít của tội phạm học Việt Nam. Dưới góc độ của tội phạm học Việt Nam, phòng ngừa tội phạm được hiểu là tổng thể các biện pháp do các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền nhằm tác động vào các yếu tố làm phát sinh tội phạm cũng như loại trừ các yếu tố này vì mục đích ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Nói một cách vắn tắt, phòng ngừa tội phạm là ngăn chặn và loại trừ tội phạm khỏi đời sống xã hội.
Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh, “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế – xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình”; “Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành một hệ thống gồm nhiều bộ phận cấu thành nó”.
Lý luận cơ bản về phòng ngừa tội phạm không xác định các biện pháp phòng ngừa cụ thể mà chỉ đưa ra những chỉ dẫn có tính nguyên tắc, định hướng cho việc nghiên cứu, đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm trên cơ sở khảo sát, đánh giá tình hình tội phạm và xác định nguyên nhân của nhóm tội (hay tội) cụ thể trong phạm vi không gian và thời gian xác định. Phòng ngừa tội phạm là ngăn chặn và loại trừ tội phạm khỏi đời sống xã hội, tạo thành hai hệ thống biện pháp cụ thể của phòng ngừa tội phạm ở từng quốc gia và giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đây chính là cơ sở cho việc nghiên cứu, xây dựng cũng như tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm về ma túy theo cấp độ và phạm vi nhất định trên cơ sở kết quả đánh giá tình hình và xác định nguyên nhân của tội phạm theo cấp độ và phạm vi tương ứng trên một địa bàn. Hệ thống các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về ma túy xét cho đến cùng nhằm loại trừ và thủ tiêu các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, xóa bỏ các tác nhân là điều kiện tạo thuận lợi việc phát sinh ra tội phạm.
Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tập trung trình bày hệ thống biện pháp phòng ngừa tội phạm, cụ thể là: Các biện pháp ngăn chặn tội phạm về ma túy và các biện pháp đẩy lùi tội phạm về ma túy.
– Các biện pháp ngăn chặn các tội phạm về ma túy
Về cơ bản, có thể hiểu một cách hệ thống và khái quát về các biện pháp loại trừ và ngăn chặn tội phạm (tình hình tội phạm) như sau: Nếu như các biện pháp loại trừ tội phạm là các biện pháp mà Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, các đoàn thể và mọi công dân tiến hành nhằm nâng cao mọi mặt của đời sống xã hội, loại trừ những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng xấu đến lối sống cộng đồng, đến quá trình hình thành nhân cách con người và là những biện pháp mang tính chiến lược, cơ bản, lâu dài để khắc phục tận gốc các yếu tố làm phát sinh tình hình tội phạm, từng bước đẩy lùi tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, thì biện pháp ngăn chặn tội phạm lại có mục đích tác động trực tiếp đến những khía cạnh có khả năng phát sinh tội phạm, cũng như những đối tượng có khả năng sẽ phạm tội, các đối tượng đã phạm tội và đã được thống kê để quản lý, tránh cho họ tiếp tục thực hiện hành vi tiêu cực và phạm tội. Với tính cách là một bộ phận không tách rời của việc pḥòng ngừa các tội phạm về ma túy, các biện pháp ngăn chặn tội phạm có cơ sở thực tế là tình hình tội phạm tiềm năng, cái được xác định trên cơ sở thực trạng của tình hình tội phạm về ma túy và nó có ba trạng thái thể hiện:
(1) Tiềm tàng ở trạng thái tội phạm chưa xảy ra;
(2) Tiềm tàng ở trạng thái tội phạm đang xảy ra;
(3) Tiềm tàng ở trạng thái tội phạm đã được xử lý theo pháp luật hình sự và người phạm tội đã thi hành xong hình phạt đối với mình. Tương ứng với với các trạng thái này là nhóm biện pháp ngăn chặn.
– Các biện pháp ngăn chặn tội phạm tiềm năng
Những biện pháp ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra được hiểu là những biện pháp kiểm soát xã hội và quản lý xã hội đối với điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội tiềm tàng, người phạm tội tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm nhằm làm tê liệt quá trình chuẩn bị và thực hiện tội phạm. Những biện pháp ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra được xây dựng trên cơ sở của trạng thái chưa xảy ra của các tội phạm về ma túy nhưng nó sắp xảy ra và đang tiềm tàng. Do đó, cần thiết phải có những biện pháp thích ứng để ngăn chặn, không để nó xảy ra (những yếu tố tiêu cực thuộc về nguyên nhân của tội phạm này thì vẫn còn tồn tại); các biện pháp này gồm có 3 đối tượng tác động:
(1) Tác động vào phương thức thực hiện các tội phạm về ma túy;
(2) Tác động vào chủ thể tiềm tàng của các tội phạm về ma túy;
(3) Tác động vào nạn nhân tiềm tàng của các tội phạm về ma túy.
Các lực lượng chức năng có nhiệm vụ nắm vững tình hình tội phạm về ma túy ở những vùng, những khu vực hay lĩnh vực có nguy cơ cao của sự thực hiện các tội phạm cụ thể về ma túy (những người có điều kiện, khả năng phạm tội về ma túy).
– Các biện pháp ngăn chặn tội phạm đang xảy ra
Các biện pháp ngăn chặn tội phạm đang xảy ra là những biện pháp ngăn chặn ở giai đoạn động cơ hoá hành vi phạm tội, ở giai đoạn kế hoạch hoá và cả ở giai đoạn hiện thực hoá hành vi phạm tội. Với tính cách là một bộ phận của phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học, nghiên cứu việc ngăn chặn tội phạm áp dụng trong trường hợp tội phạm đang xảy ra là cần thiết. Qua nghiên cứu thực tế, thấy rằng mục tiêu cơ bản của việc ngăn chặn tội phạm là không để cho tội phạm được thực hiện đến cùng. Biện pháp này được hiểu là: (1) Kịp thời phát hiện nhằm chặn đứng hành vi phạm tội về ma túy đang diễn ra, không để cho nó gây thêm thiệt hại thông qua các chủ thể chức năng hoặc được phát hiện bởi các chủ thể khác như các tổ chức, đoàn thể, cơ quan quản lý hành chính nhà nước,… và nhân dân; (2) Chặn đứng quá trình lặp lại của hành vi phạm tội về ma túy, không để cho tội phạm được thực hiện nhiều lần. Các biện pháp ngăn chặn đối với trường hợp này phải được phát hiện sớm bởi lực lượng chức năng hoặc các các chủ thể khác để kịp thời tố giác, tin báo nhằm xác minh, xử lý kịp thời.
Yêu cầu đặt ra cho công tác phòng ngừa tội phạm đối với biện pháp này là mọi hành vi phạm tội về ma túy phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng quy định của pháp luật. Nói cách khác, là ngăn chặn không để người phạm tội về ma túy che giấu hành vi phạm tội và tiếp tục lặp lại hành vi phạm tội đã thực hiện (có thể rơi vào trường hợp phạm tội nhiều lần, tức là có thể có từ hai lần trở lên phạm cùng một loại tội, trong đó mỗi lần đều đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, nay các lần phạm tội đó được xét xử trong cùng một bản án). Trên thực tế, xử lý tội phạm về ma túy cho thấy nếu không phát hiện kịp thời thì ở lần phạm tội sau, mức độ thường nghiêm trọng hơn. Các biện pháp ngăn chặn tội phạm đang xảy ra tập trung vào hai vấn đề sau:
(1) Ngăn chặn khi tội phạm đang được thực hiện;
(2) Ngăn chặn những trường hợp lặp lại của hành vi phạm tội về ma túy.
– Các biện pháp ngăn chặn tái phạm
Điều 53 BLHS năm 2015 quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm như sau: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.” Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Bên cạnh đó, một trong những nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội quy định tại điểm c khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 là “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội”.
Với số lượng lớn tội phạm về ma túy đã điều tra, truy tố, xét xử và áp dụng các hình phạt hình sự trên toàn quốc trong thời gian qua thì nhất thiết phải quan tâm đến phòng ngừa tái phạm, tái phạm nguy hiểm nhằm ngăn chặn sự lặp lại của hành vi phạm tội đối với những người đã chấp hành xong hình phạt, đã trở lại với cộng đồng, xã hội hoặc đang được áp dụng các hình phạt án treo, cải tạo không giam giữ. Theo đó, cần tập trung vào các vấn đề:
– Về phía người phạm tội;
– Về phía nạn nhân;
– Về phía các cơ quan bảo vệ pháp luật.
– Các biện pháp đẩy lùi các tội phạm về ma túy
Những biện pháp loại trừ tội phạm được hiểu là các biện pháp do Đảng và Nhà nước, các tổ chức và đoàn thể xã hội và mọi công dân tiến hành nhằm nâng cao mọi mặt của đời sống xã hội và đẩy lùi những yếu tố tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến lối sống cộng đồng, ảnh hưởng xấu đến quá trình hình thành nhân cách của từng cá nhân. Ở góc độ khác, đây là những biện pháp mang tính chiến lược, cơ bản, ngắn hạn từ 1 đến 2 năm, trung hạn từ 3 đến 5 năm, hoặc lâu dài hơn mà tầm nhìn đến 10 hoặc 20 năm (Bộ Công an tham mưu, đề xuất Chính phủ tại Báo cáo số 44/BC-BCA-C41 ngày 23/2/2016 xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống ma túy đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030) nhằm ngăn ngừa trước, không cho tội phạm xảy ra; hướng tới khắc phục tận gốc các yếu tố làm phát sinh tội phạm và từng bước đẩy lùi tội phạm khỏi đời sống xã hội. Đề xuất các biện pháp đẩy lùi các tội phạm về ma túy gồm các biện pháp cơ bản sau:
– Biện pháp về kinh tế xã hội
Nhà nước Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo… (Điều 50 và Điều 51 Hiến pháp 2013). Những biện pháp nhằm phát triển kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo trong xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện, đều là những biện pháp có giá trị to lớn và quyết định để giải quyết vấn đề tội phạm trong xã hội. Những nhược điểm, khiếm khuyết hay sai lầm trong các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội cũng sẽ mang lại hậu quả xấu không chỉ đối với đời sống kinh tế của xã hội mà còn làm cho tình hình tội phạm ở mỗi giai đoạn có sự diễn biến tiêu cực hơn. Những giải pháp về kinh tế, xã hội có tác động trực tiếp đến các nguyên nhân gốc rễ của tội phạm, vì vậy, chúng có ý nghĩa quyết định đối với việc phòng ngừa tội phạm.
Kinh tế, xã hội là chủ trương, là chính sách, là kế hoạch hoạt động chung của toàn xã hội. Các nhà tội phạm học có trách nhiệm góp phần xây dựng những nội dung đó có ý nghĩa trực tiếp đối với việc loại trừ nguyên nhân của tội phạm. Đồng thời, các nhà tội phạm học cũng có trách nhiệm phải xác định được những ảnh hưởng xấu, những kẽ hở của chính kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội mà những ảnh hưởng xấu, những kẽ hở đó có thể trở thành nguyên nhân của tội phạm. Điều 57 Hiến pháp năm 2013 của nhà nước ta quy định: Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
– Biện pháp về văn hóa – giáo dục
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận rất rõ về văn hóa và giáo dục tại các Điều 60 và 61. Khoản 3 Điều 60 quy định: “Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân”. Khoản 3 Điều 61 quy định: “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề”.
Văn hóa và giáo dục là hai yếu tố trực tiếp hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người trong xã hội. Đặc biệt là trong thời đại công nghệ thông tin ngày nay, những sai lầm, khiếm khuyết trong công tác giáo dục và trong hoạt động văn hóa sẽ có ảnh hưởng lớn hơn, nhanh hơn, phạm vi bao trùm hơn đến sự hình thành những nhân cách sai lệch – nguồn phát sinh tội phạm trong xã hội. Có thể thấy rằng văn hóa là mặt biểu hiện trong hành vi, lối sống và trong hoạt động cũng như trong kết quả, sản phẩm của hoạt động của con người.
Trong tội phạm học, giáo dục và đào tạo cần được xem là một biện pháp phòng ngừa cơ bản đối với tình hình tội phạm. Để phòng ngừa tội phạm, những biện pháp về văn hóa, giáo dục cần đặt trong sự kết hợp hài hòa, tạo thành một hệ thống giáo dục trên phạm vi toàn xã hội như: Giáo dục tại gia đình; giáo dục tại tổ dân phố, thôn, xóm, phường, xã; giáo dục trong nhà trường; giáo dục tại nơi làm việc;… và sử dụng các kênh thông tin như sách, báo, đài, vô tuyến truyền hình,… Đặc biệt là cần có sự nghiên cứu, xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối thông tin trên môi trường mạng xã hội (Internet).
Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các biện pháp phòng ngừa tội phạm thuộc tính định hướng giáo dục con người và xây dựng môi trường xã hội có tính giáo dục được đề ra với mục đích nhằm: Khắc phục những hạn chế trong hoạt động giáo dục trong các môi trường khác nhau, đặc biệt là môi trường gia đình và môi trường nhà trường; khắc phục những khiếm khuyết có tính phản giáo dục của môi trường xã hội – những khiếm khuyết ảnh hưởng xấu đến hiệu quả giáo dục xã hội cũng như hạn chế việc tự tu dưỡng của cá nhân.
– Biện pháp về tổ chức, quản lý xã hội
Điều 46 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”. Đấu tranh phòng chống ma túy với tính chất là một hoạt động của các cơ quan Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực này cần phải được xác lập về mặt pháp luật phù hợp với đòi hỏi của cuộc sống, phản ánh được các quan hệ xã hội phù hợp với những quy luật của bản thân pháp luật với tính chất là một hiện tượng xã hội. Biện pháp này hướng tới sự hoàn thiện, củng cố bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh công khai, dân chủ, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước, trong mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với công dân. Hiến pháp năm 2013 khẳng định tại Điều 3: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.” Phạm vi nghiên cứu hướng vào các chủ thể của hoạt động phòng ngừa các tội phạm về ma túy.
Do hoạt động phòng ngừa tội phạm về ma túy bao gồm tổng thể các hoạt động của các biện pháp chính trị, tuyên truyền, giáo dục, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, hợp tác quốc tế… Các biện pháp đó được áp dụng đồng bộ nhằm nâng cao ý thức và trách nhiệm của toàn dân trong hoạt động phòng ngừa tội phạm về ma túy, tổ chức, động viên các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội xóa bỏ những cơ sở xã hội, những điều kiện làm nảy sinh tội phạm về ma túy.
– Biện pháp về pháp luật
Pháp luật và đạo đức là hai lĩnh vực khác nhau thuộc hình thái ý thức xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hai vấn đề này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức; ngược lại, đạo đức là những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi con người trong quan hệ với người khác, nhưng nhiều khi rất cần sự hỗ trợ của pháp luật. Bởi vì nếu không kết hợp với tính nghiêm minh, khoa học của pháp luật thì giáo dục đạo đức trở thành vô nghĩa. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy là một nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy ở Việt Nam và các quốc gia khác trên toàn thế giới. Việc xây dựng các chính sách pháp luật tại Việt Nam dựa trên nền tảng chung là Công ước quốc tế và kiểm soát ma túy: Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 (sửa đổi theo Nghị định thư 1972); Công ước về các chất hướng thần năm 1971; Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988).
Xuất phát từ thực trạng của hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay, các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về ma túy thông qua hệ thống pháp luật phải bao gồm các nội dung cơ bản sau: Hoàn thiện cơ chế làm luật; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tức là Nhà nước cần phải xây dựng mới và hoàn thiện pháp luật cho các lĩnh vực cần thiết của đời sống kinh tế-xã hội nhằm phát huy mọi nguồn lực, mọi tài năng sáng tạo và lao động của nhân dân, đồng thời tạo ra những bảo đảm cần thiết và đầy đủ để công dân thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình về kinh tế, chính trị, dân sự… Đặc biệt, phải khắc phục được những tồn tại hạn chế như: Thiếu thống nhất; chưa chặt chẽ; chưa khả thi trong thực tế; thiếu cơ chế phối hợp thực hiện;… Việc thường xuyên rà soát các quy định của pháp luật nhằm kịp thời khắc phục những hạn chế của pháp luật trong công tác đấu tranh phòng, chống ma túy là hết sức cần thiết. Vì vậy, cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình sự để nghiêm trị các hành vi, tội phạm về ma túy.
Ngành Kiểm sát nhân dân cần tiếp tục thực hiện nghiêm chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội; phối hợp, đẩy nhanh việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, nhất là Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự; tăng cường tổ chức các hội nghị tập huấn, các lớp bồi dưỡng chuyên sâu để thống nhất nhận thức, thực hiện đúng, đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát theo quy định mới của các đạo luật về tư pháp; xây dựng, hoàn thiện các quy trình, kỹ năng trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát.
Ngành Kiểm sát nhân dân đề xuất Ủy ban Thường vụ Quốc hội sớm ban hành văn bản giải thích, hướng dẫn những quy định trong Bộ luật Hình sự, các nghị quyết của Quốc hội hướng dẫn thi hành; tiếp tục chỉ đạo các cơ quan tư pháp trung ương khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật theo thẩm quyền, nhất là đối với các đạo luật tư pháp mới để kịp thời phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật; sửa đổi, hoàn thiện Luật Giám định tư pháp; củng cố kiện toàn bộ máy, đề cao trách nhiệm của các cơ quan, giám định viên làm công tác giám định, bảo đảm bổ trợ tốt hơn cho công tác điều tra, xử lý các vụ án hình sự về ma túy; chỉ đạo, yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội đối với 04 trường hợp trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy.
– Các giải pháp chủ yếu theo Chương trình phòng, chống ma túy đến năm 2020 của Chính phủ
Nâng cao hiệu quả điều hành, chỉ đạo thực hiện toàn diện công tác phòng, chống ma túy
Nâng cao năng lực nắm tình hình, phát hiện, điều tra, xử lý các vụ vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy, nhất là các vụ án phức tạp, nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan phòng, chống ma túy theo hướng chuyên môn hóa, phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ, trong đó, ưu tiên tăng cường lực lượng, nâng cao năng lực cho lực lượng chuyên trách và bộ phận làm công tác tham mưu, quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng, chống ma túy, trước mắt là khẩn trương rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các quy định pháp luật khác liên quan; tổ chức quản lý chặt chẽ những ngành, nghề dễ bị tội phạm ma túy lợi dụng thực hiện hoạt động phạm tội, các hoạt động xuất nhập khẩu, sử dụng tiền chất ma túy, thuốc hướng thần và thuốc có chứa chất ma túy.
 Bảo đảm các nguồn lực, có chính sách đãi ngộ thích đáng, động viên, khuyến khích việc tham gia các hoạt động phòng, chống ma túy của các cá nhân, tổ chức kinh tế – xã hội và cả hệ thống chính trị; định kỳ có kế hoạch tổ chức điều tra cơ bản, rà soát, đánh giá tình hình tệ nạn ma túy để điều chỉnh các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống ma túy phù hợp với từng thời điểm và từng địa bàn.
Áp dụng hiệu quả các thành tựu khoa học tiên tiến và công nghệ hiện đại vào công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy; ưu tiên lĩnh vực đấu tranh, giám định chất ma túy và thống kê về phòng, chống ma túy.
Nâng cao năng lực, hiệu quả tuyên truyền phòng, chống ma túy
Xác định rõ vai trò, phân công cụ thể trách nhiệm của các cơ quan chủ trì, phối hợp và thống nhất nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy giữa các cơ quan chức năng; tiến hành nghiên cứu, cải tiến phương pháp, nội dung, hình thức, xây dựng các chương trình tuyên truyền theo hướng chuyên sâu, phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể.
Xây dựng chương trình, kế hoạch, gia tăng thời lượng và đa dạng các hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục phòng, chống ma túy trên các phương tiện thông tin đại chúng; tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp tuyên truyền phòng, chống ma túy giữa các bộ, ngành, địa phương; xây dựng các phóng sự, thông điệp và những thông tin phòng, chống ma túy cần thiết, thu hút được sự quan tâm của đại đa số người dân vào những thời điểm thích hợp; đưa nội dung tuyên truyền phòng, chống ma túy trên mạng viễn thông, Internet, đồng thời, có biện pháp hạn chế việc quảng bá, lôi kéo sử dụng bất hợp pháp các chất ma túy qua các mạng này.
Kết hợp các hình thức tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng với tuyên truyền trực tiếp, trong đó chú ý vai trò của các tổ chức, cá nhân có uy tín, ảnh hưởng; các hoạt động văn nghệ, thể thao sinh động mang thông điệp phòng, chống ma túy; xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình tuyên truyền, giáo dục kỹ năng phòng, chống ma túy phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể, trọng tâm là học sinh – sinh viên, công nhân, viên chức, đoàn viên công đoàn và nhân dân ở các vùng có nguy cơ trồng cây có chứa chất ma túy.
Hằng năm, có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao kiến thức nghiệp vụ và kỹ năng cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy từ trung ương đến địa phương, đội ngũ phóng viên, cán bộ giảng dạy tại các nhà trường được phân công trực tiếp thực hiện công tác này.
Hỗ trợ tổ chức triển khai đồng bộ các hoạt động phòng, chống ma túy ở cấp cơ sở, tập trung cho các xã, phường, thị trấn có ma túy. Trong đó, chú trọng triển khai các hoạt động tuyên truyền nhằm làm tốt công tác phòng ngừa tệ nạn ma túy phát sinh; bồi dưỡng, nâng cao khả năng nghiệp vụ cho lực lượng công an cấp xã và các tổ chức đoàn thể về phòng, chống ma túy; xây dựng và duy trì các mô hình có hiệu quả về phòng, chống ma túy.
Nâng cao năng lực, hiệu quả đấu tranh chống tội phạm về ma túy
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra vấn đề quan tâm đầu tư xây dựng trụ sở, phương tiện, trang thiết bị làm việc cho các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, đến nay, một số nội dung liên quan đến tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng hệ thống trụ sở cho các cơ quan tư pháp cấp huyện vẫn chưa được quan tâm đúng mức, nhiều trụ sở VKSND cấp huyện đã xuống cấp trầm trọng nhưng chậm được đầu tư. Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức CQĐT hình sự 2015, hoạt động kiểm sát là hoạt động mang tính đặc thù. Viện kiểm sát phải tham gia nhiều hoạt động điều tra hoặc trực tiếp tiến hành hoạt động điều tra nhằm bảo đảm chống oan, sai và chống bỏ lọt tội phạm,… Tuy nhiên, kinh phí, trang thiết bị, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Cần tăng cường lực lượng, bố trí phù hợp, kết hợp bồi dưỡng, nâng cao năng lực phòng, chống ma túy cho các lực lượng chuyên trách, bảo đảm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết đề ra, phù hợp tình hình thực tiễn và các chính sách pháp luật hiện hành; bổ sung, sửa chữa, nâng cấp, trang cấp những trang thiết bị cần thiết, hiện đại cho các lực lượng chuyên trách; đặc biệt là những trang thiết bị phục vụ cho cơ động chiến đấu, thông tin liên lạc, đảm bảo hiệu lực và an toàn cho cán bộ chiến sỹ trực tiếp đấu tranh; hỗ trợ trang cấp thiết bị hiện đại, phù hợp cho VKSND các cấp nhằm đáp ứng thực tiễn.
Tăng cường phối, kết hợp giữa các lực lượng chuyên trách ở Trung ương và giữa các cơ quan chuyên trách ở Trung ương với các địa phương, nhất là những địa phương trọng điểm phức tạp về ma túy; kịp thời rút kinh nghiệm việc thực hiện các kế hoạch phối hợp nhằm bổ sung các biện pháp phù hợp để triển khai thực hiện có hiệu quả các kế hoạch này.
Triển khai các hoạt động nghiệp vụ nhằm phát hiện, đấu tranh, xử lý triệt để tội phạm về ma túy, nhất là các vụ phạm tội nghiêm trọng và tại các địa bàn trọng điểm phức tạp như: Điều tra cơ bản, xây dựng kế hoạch đấu tranh sát với tình hình; ngăn chặn ma túy xâm nhập ở khu vực biên giới; triệt xóa các điểm, tụ điểm phức tạp về ma túy; phối hợp các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; phòng ngừa, kiểm soát nhằm phát hiện sớm và tổ chức triệt xóa cây có chất ma túy; truy bắt tội phạm, thu hồi triệt để tài sản do phạm tội mà có.
Xây dựng, tổ chức thực hiện những kế hoạch phối hợp trong quản lý, kiểm tra, giám sát để ngăn chặn hiệu quả việc thất thoát, thẩm lậu các tiền chất, hóa chất, dược liệu vào việc sản xuất ma túy tổng hợp trong nước; chủ động tổ chức các biện pháp ngăn chặn việc trồng trái phép cây có chứa chất ma túy.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác điều trị, cai nghiện ma túy
Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án đổi mới công tác cai nghiện được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 và Chương trình đầu tư phát triển hệ thống dịch vụ xã hội hỗ trợ người nghiện ma túy giai đoạn 2016 – 2020; tăng cường xã hội hóa, huy động các nguồn lực vào công tác điều trị và cai nghiện ma túy; tăng cường công tác quản lý người sử dụng, người nghiện, người cai nghiện ma túy và đảm bảo an ninh trật tự tại các cơ sở cai nghiện ma túy; nghiên cứu, xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung, thay thế các Nghị định quy định về quản lý người nghiện và cai nghiện ma túy hiện hành.
Xây dựng các tiêu chí xác định mức độ lạm dụng, nghiện ma túy và phác đồ điều trị nghiện, rối loạn do sử dụng ma túy phù hợp với các quy định pháp lý và thực tế trong nước; tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, cán bộ trực tiếp thực hiện công tác tư vấn, điều trị cai nghiện ma túy.
Tiếp tục rà soát, quy hoạch, nâng cấp, cải tạo các cơ sở cai nghiện ma túy theo hướng đa chức năng, thân thiện và dễ tiếp cận đối với người nghiện; nghiên cứu, đổi mới công tác cai nghiện tại gia đình và cộng đồng phù hợp tình hình thực tế; nghiên cứu, thí điểm, xây dựng quy trình và tiến hành điều trị nghiện ma túy có hiệu quả với từng loại ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp để áp dụng tại các cơ sở cai nghiện ma túy và cơ sở y tế.
Hỗ trợ nâng cấp, cải tạo, chuyển đổi công năng các cơ sở cai nghiện ma túy, điều trị lồng ghép điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế (Methadone) tại cộng đồng hoặc theo cụm xã, phường, thị trấn; hỗ trợ công tác dạy nghề, tạo việc làm cho người sau cai nghiện. Mở rộng điều trị Methadone cho phạm nhân trong trại giam.
Xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách hạn chế người nghiện bỏ việc điều trị, khuyến khích cai nghiện tự nguyện; thí điểm và nhân rộng các mô hình cai nghiện và quản lý người nghiện kết hợp với dạy nghề, tạo việc làm theo hướng xã hội hóa.
Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
– Triển khai thực hiện có hiệu quả Công ước quốc tế về kiểm soát ma túy, các Hiệp định và thỏa thuận song phương, đa phương về hợp tác phòng, chống ma túy mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Nâng cao khả năng hợp tác cho các lực lượng chuyên trách về phòng, chống ma túy trong nước với các tổ chức quốc tế, các nước trong khu vực và trên thế giới; ưu tiên hợp tác với các nước có chung đường biên giới, khu vực; đào tạo và tạo điều kiện cho cán bộ có năng lực làm việc tại các tổ chức về phòng, chống ma túy quốc tế.
– Nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống tội phạm ma túy; chia sẻ kinh nghiệm, đào tạo, bồi dưỡng và tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ trong phòng, chống và kiểm soát ma túy; đề xuất đàm phán ký kết các kế hoạch, chương trình và Hiệp định phòng, chống ma túy mới.
Tiến sĩ Đỗ Thành Trường 
Trưởng phòng, Phòng Tham mưu tổng hợp, Văn phòng VKSND tối cao

Nguồn: Cổng thông tin điện tử viện kiểm sát nhân dân tối cao

Gửi phản hồi